Thạc sĩ – bác sĩ Trần Đăng Khoa, Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, cho biết bạch hầu là bệnh nhiễm trùng cấp tính kết hợp nhiễm độc tố do vi khuẩn bạch hầu (Corynebacterium diphtheriae) gây ra. Bệnh này biểu hiện bệnh chủ yếu ở đường hô hấp hoặc ngoài da, hiếm khi gây hoại tử da, nhiễm trùng huyết, viêm nội tâm mạc, viêm tủy xương hay viêm khớp.
Khi vào cơ thể, vi khuẩn bạch hầu tạo ra sang thương chính là lớp giả mạc màu trắng xám hoặc trắng ngà ở đường hô hấp trên, đây là lý do tại sao có tên là “bạch hầu”.
>>> Bệnh bạch hầu: Nguồn lây không ngờ và các tình huống tiếp xúc gần
>>> Sau ca bệnh bạch hầu ở Bắc Giang, Thái Nguyên hỏa tốc chỉ đạo chống dịch
Lớp giả mạc bạch hầu có tính chất khác với giả mạc các bệnh khác ở chỗ rất dai, không tan trong nước dính chặt vào lớp thượng bì bên dưới nên khó tróc và dễ chảy máu khi dùng cây đè lưỡi cạo hay nạy. Vị trí giả mạc thường ở mũi, họng, amidan, thanh quản… sau đó có thể lan rộng nếu không được điều trị.
Tỷ lệ tử vong lên đến 30-40% đối với trường hợp nặng, giả mạc lan rộng gây tắc nghẽn hô hấp hoặc có biến chứng mà không điều trị kịp thời, có thể tăng đến 50% trong mùa dịch. Nếu bệnh nhân được dùng kháng độc tố bạch hầu (SAD) thì tỷ lệ tử vong có thể giảm xuống còn khoảng 5-10%, nhưng hiện nay nguồn cung cấp còn rất hạn chế.
Tỷ lệ tái nhiễm bệnh bạch hầu 2-5%
Bác sĩ Đăng Khoa cho biết, người khỏi bệnh bạch hầu thường sẽ có miễn dịch lâu dài, có thể bảo vệ suốt đời nếu không bị suy giảm miễn dịch do dùng thuốc ức chế miễn dịch, bệnh ác tính, HIV… Tỷ lệ tái nhiễm bệnh bạch hầu không cao, chỉ khoảng 2-5%.
Tuy nhiên, sau khi khỏi bệnh lâm sàng, bệnh nhân có thể mang khuẩn một thời gian từ vài ngày đến 2 tuần hoặc từ 2 tuần đến 1 tháng. Vì vậy để tránh tình trạng gieo rắc vi khuẩn ra tập thể, bệnh nhân phải được cách ly và chỉ xuất viện khi cấy dịch hầu họng 3 lần âm tính cách nhau 5-7 ngày.
Sức cảm thụ của người với vi khuẩn bạch hầu không cao, khoảng 15-20%, nhưng miễn dịch không bền và không đi đôi với mức độ nặng nhẹ của bệnh, kèm theo miễn dịch chỉ có tính kháng độc mà không diệt khuẩn. Nên nếu vi khuẩn bạch hầu xâm nhập nhiều và độc lực cao, thì người miễn dịch yếu vẫn có thể mắc bệnh. Do đó nên tiêm nhắc lại vắc xin 10 năm/lần để tăng cường miễn dịch bảo vệ cũng như áp dụng các biện pháp phòng ngừa bệnh lây qua đường hô hấp thường xuyên.
Con đường lây nhiễm bệnh bạch hầu
Theo bác sĩ Đăng Khoa, vi khuẩn bạch hầu khi ra khỏi cơ thể có thể sống khoảng 2-3 tuần trên bề mặt khô của các vật dụng như giường bệnh, bàn ghế, đồ chơi, sách, viết, tay nắm cửa, đôi khi có thể tồn tại trong nước, sữa…
Bệnh bạch hầu biểu hiện ở hô hấp và da nên đường lây nhiễm chính là đường hô hấp và tiếp xúc. Khi bệnh nhân hoặc người mang vi khuẩn ho, sổ mũi sẽ văng các hạt nước bọt chứa vi khuẩn ra ngoài và lây vào đường hô hấp của người chưa bệnh, hoặc lây qua tiếp xúc trực tiếp các dịch chất khi chạm vào sang thương da của bệnh bạch hầu.
Con đường lây nhiễm gián tiếp hơn như tiếp xúc vi khuẩn trên các bề mặt qua giường bệnh, bàn ghế, đồ chơi, sách, viết, tay nắm cửa… rất ít gặp, dù rằng vi khuẩn có thể hiện diện nhiều tuần trong môi trường bên ngoài, có thể do các hạt nước bọt hoặc dịch vết thương trên bề mặt sẽ khô đi ít nhiều khi ra môi trường, làm hạn chế phần nào số lượng vi khuẩn lây nhiễm.
Hai đường lây nhiễm trên cũng tương tự đường lây các bệnh hô hấp khác như Covid-19, sởi…
Cách phòng tránh bệnh bạch hầu
Tình trạng bệnh bạch hầu đang có chiều hướng gia tăng ở Việt Nam, đặc biệt là ở các tỉnh Tây nguyên, do tỷ lệ tiêm vắc xin bạch hầu ở một số vùng chưa đạt mức cao. Bệnh bạch hầu có thể phòng ngừa bằng biện pháp bảo vệ các bệnh lây qua đường hô hấp như:
- Giữ vệ sinh cá nhân, rửa tay thường xuyên bằng xà phòng; che miệng khi hắt hơi hoặc ho; hạn chế tiếp xúc trực tiếp với người bệnh hoặc nghi ngờ nhiễm bệnh.
- Đảm bảo không gian nhà ở, trường học, các nơi công cộng sạch sẽ, thông thoáng
- Với những người xuất hiện các triệu chứng bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu cần được cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được thăm khám, chẩn đoán và điều trị kịp thời.
- Người dân sống trong vùng có ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc khám chữa bệnh cũng như các chỉ định phòng bệnh của cơ sở y tế.
Ngoài ra, dự phòng bệnh bạch hầu tốt nhất là biện pháp chủng ngừa. Vắc xin phòng bạch hầu được tích hợp trong nhiều loại vắc xin kết hợp có thể chích cho trẻ em từ 6 tuần tuổi đến người lớn.
Các trường hợp có tiếp xúc với bệnh nhân bạch hầu cần phải được theo dõi lâm sàng tối thiểu một tuần. Cấy phết hầu họng tìm vi khuẩn bạch hầu, nếu dương tính thì sẽ dùng kháng sinh điều trị cho đối tượng này. Người tiếp xúc gần bệnh nhân nếu tình trạng miễn dịch chưa đầy đủ nên tiêm ngay 1 liều vắc xin theo tuổi và hoàn thành các mũi còn lại theo lịch…